HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆ (P2)
"Ðất nước Việt Nam có
khi thịnh khi suy, lịch sử Việt Nam có khi hưng khi phế, thế hệ trước
không giữ được Hoàng Sa nhưng không phải vì thế mà Hoàng Sa trở thành
đất của Trung Quốc hay của bất cứ một quốc gia nào khác. Dân tộc Việt
Nam, các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau phải nhớ rằng: Bất cứ khi
nào các điều kiện kinh tế, chính trị và quân sự cho phép, một trong
những việc đầu tiên là phải lấy lại Hoàng Sa."
Khi đọc những dòng
đó lên, hẳn nhiều người rất bồi hồi. Và tôi cũng vậy. Slogan ấy hẳn
nhiều người còn nhớ. Đó cũng là tiếng lòng của dân tộc này. Mai sau và
hôm nay, những người con nước Việt phải nhớ. Cách đây 3 thế kỷ, đó cũng
là những gì mà hoàng đế Quang Trung đã làm năm xưa khi Ngài có sức mạnh
lớn lao như mặt trời chính ngọ. Và việc đầu tiên ngài làm là đòi Lưỡng
Quảng về cho dân tộc này. Khi người hoàng đế áo vải bách chiến bách
thắng ấy hệt như một Thành Cát Tư Hãn muốn thâu trọn cả thiên hạ. Ngài
đã làm tất cả, từ ngoại giao khôn khéo, sử dụng cả Thiên Địa Hội “phản
Thanh phục Minh” để phá rối Trung Quốc, đi kèm đó là giao thương buôn
bán + xin đưa quân lính sang bảo vệ các thương nhân người Việt, đồng
thời cầu hôn con gái vua Càn Long, song song với đó biên thư liên tục về
đòi đất Lưỡng Quảng. Ông đã gây sức ép lên mọi mặt để có thể lấy Lưỡng
Quảng về lại cho dân tộc. Nhưng vận mệnh của dân tộc chỉ dừng ở tại đó.
39 tuổi, ngài mất trong mọi dang dở về dự định. Để lại một nỗi tiếc
nuối lớn lao cho hậu thế.
Chúng ta sẽ không nói nhiều về từ “Nếu”
ấy nữa. Trong cái giai đoạn mà “cá lớn nuốt cá bé” ấy, mọi vấn đề về
tranh chấp lãnh thổ không có nhiều ý nghĩa. Chỉ sau thế chiến II, khi
hội nghị Ianta lập ra một tổ chức mang tên Liên Hợp Quốc. Mọi vấn đề mới
được giải quyết. Mọi lãnh thổ đã đi vào nền nếp. Lưỡng Quảng chỉ còn là
một giấc mộng cát bụi như chính tham vọng lịch sử của Vua Quang Trung.
Nhưng Hoàng Sa thì không bao giờ.
“…Một hôm Vua Quang Trung hỏi:
“Trước đây có ai dám đánh quân Tàu không?”
Vị cận thần tâu:
“Có, nào đức Trần Hưng Đạo đánh giặc Nguyên, nào vua Lê Thái Tổ đánh giặc Minh, chuyện xưa hãy còn nhiều lắm.”
Vua Quang Trung thêm:
“Song le, có ai dám tận Tàu mà đánh rồi chiếm lấy đất?”
Vị bầy tôi tâu:
“Chưa”
Thấy nói “chưa”, Vua Quang Trung hăng hái phán:
“Vậy thì để ta sẽ làm cho mà coi.”
9 chữ ấy, lịch sử dân tộc từ cổ chí kim không có ai dám nói.
Hôm trước khi tôi viết phần 1 có nói Quang Trung là vị tướng duy nhất
trong lịch sử dân tộc đánh Tấn Công. Từ Tấn công ấy không phải giống như
kiểu Tấn Công của Lý Thường Kiệt. Lý Thường Kiệt đánh xong Châu Ung,
châu Khiêm thì trả lại chứ không chiếm. Còn Quang Trung là muốn chiếm
đất. Vì Lý Thường Kiệt đánh là để phòng thủ, còn Quang Trung đánh là như
Nã Phá Luân, như Thành Cát Tư Hãn đi chinh phục. Quang Trung là mang
cái dã tâm, cái tham vọng, cái tàn bạo của kẻ sinh ra trên lưng ngựa. 18
tuổi đến 36 tuổi, quét sạch từ Nam ra Bắc để thống nhất đất nước. Và
khi yên bờ cõi, thì trui rèn lực lượng 10 năm hướng về phía Tàu. Ông
xuất phát từ nông dân mà lên chứ không phải là người thuộc dòng dõi quý
tộc có nhiệm vụ trấn giữ bờ cõi. Vì vậy ông rất khác.
I/Tài luyện binh
Ngài không chỉ là một vị tướng có tầm nhìn chiến lược, mà còn là vị
tướng chiến thuật với những chiến trận cụ thể. Nhưng trước khi có những
chiến trận với mưu kế trập trùng như một bậc đại anh hùng. Ông còn là
một vị tướng giỏi luyện binh.
Hãy chú ý điều này: các bạn biết
tại sao trước nay các cuộc khởi nghĩa nông dân thường nhanh chóng bị dập
tắt không? Bởi người nông dân khởi nghĩa tuy có nhiệt huyết nhưng chỉ
mang cái manh mún , tuy có sự dũng cảm nhưng lại thiếu cái chuyên nghiệp
của một quân đội chính quy. Đó là lý do vì sao họ thường bị quân triều
đình đánh dẹp. Trước khi khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra đã có các cuộc khởi
nghĩa của nhà sư Nguyễn Dương Hùng ở Sơn Tây, khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu ở
ven biển Đồ Sơn, khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương ở phía tây Thăng
Long…những tất cả đều bị quân Trịnh đàn áp. Chỉ đến khi khởi nghĩa Tây
Sơn nổ ra thì chính tay Tây Sơn mới là kẻ diệt Trịnh – Nguyễn. Điều này
có được là nhờ chính ở tài luyện binh và đốc binh của Nguyễn Huệ. Biến
đội quân của những người nông dân áo vải thành những quân lính tinh
nhuệ. Bạn nhớ nhé: bộ binh Tây Sơn đã dùng súng trường của phương Tây
rồi đấy. Và Nguyễn Huệ luyện binh giỏi đến nỗi pháo binh (hạng nhẹ) của
Tây Sơn bắn chính xác hơn bộ binh dùng súng trường. Đặc biệt quân chủ
lực của Tây Sơn còn sở hữu một thứ vũ khí là đặc sản của họ: hỏa hổ: một
loại hỏa tiễn cầm tay, rất gọn nhẹ và rất có lợi cho thực chiến. Về đốc
binh, Nguyễn Huệ thi hành bàn tay sắt, dưới trướng của ông không có
quân hèn, dưới trướng của ông đã vào trận là cảm tử lao lên, quay đầu
lại là bị xử chém. Còn ngài thì sao? Đích thân ngài cưỡi voi ra trận, đi
ngay tuyến đầu. Quân lính nhìn vào ngài mà tiến lên, còn ngài xông pha
trận tiền, uy dũng lẫm liệt.
Một đạo quân không chỉ dùng súng, mà
còn biết kết hợp thủy bộ rất nhuần nhuyễn, biết sử dụng voi ra trận.
Một đạo quân hiếm hoi và tinh nhuệ bậc nhất của lịch sử dân tộc. Và khi
ngài chết đi, cái tài luyện binh, đốc binh, cái tài bắn pháo, hỏa hổ,
súng trường…cũng mất đi. Ngài sinh ra để cho Tây Sơn. Và ngài chết đi
thì Tây Sơn cũng tàn lụi.
2/ Tài chỉ huy chiến trận
Hẳn
trong các bạn ai cũng biết về câu chuyện “Người cỏ mượn tên” của Gia Cát
Khổng Minh trong Tam Quốc Diễn Nghĩa ở trận Xích Bích chứ? Hừ, “Người
cỏ mượn tên” có là gì? Nguyễn Huệ còn cao minh hơn một bậc.
Năm
1786, Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc đánh Trịnh. Ông chỉ huy thủy quân, giao
cho Nguyễn Hữu Chỉnh 400 chiến thuyền đánh tiên phong. Sau khi chiếm
được Thanh Hóa – Nghệ An: đây là 2 vùng đất tối quan trọng. Quân Trịnh
hoảng hốt liền cho quân ra chặn ở khúc sông Sơn Nam. Và bây giờ “Người
cỏ mượn tên” xin được phép bắt đầu.
Lợi dụng đêm tối, Huệ dùng
mưu, cho năm chiếc thuyền chở người nộm bằng rơm tiến lên, hò hét đánh
trống trận ầm ĩ, và đón nhận hỏa lực cực mạnh của quân Trịnh. Quân Trịnh
bắn say sưa cho đến khi hết đạn. Khi hỏa lực yếu dần, Nguyễn Huệ lúc ấy
mới mở đợt tấn công cực mạnh, và dễ dàng đánh bại toàn bộ quân Trịnh.
Kẻ cầm quân phải “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, vào cái đêm
không trăng không sao, đưa người cỏ ra nhận hỏa lực. Đó là Nguyễn Huệ.
Chiến thắng ở Sơn Nam. Huệ kéo rốc quân tới Thăng Long. 4 trận thắng ở
Đàng Trong, 2 trận thắng ở Đàng Ngoài. Chính thức tiêu diệt Trịnh –
Nguyễn. Phủ chúa chấm dứt sau 200 năm tồn tại. Vị tướng trẻ năm ấy 33
tuổi. Tạo tiền đề lớn nhất cho dân tộc Việt Nam thống nhất.
Trận Rạch Gầm – Xoài Mút là một kiểu chiến thuật khác. Trận này thực ra rất phức tạp vì cả thủy – bộ phải cùng đánh.
Khi Nguyễn Ánh dẫn quân Xiêm vào, quân Xiêm đóng ở Sa Đéc- Đồng Tháp.
Và chúng ta hãy xem Nguyễn Huệ làm gì (Yên tâm, tôi không bắt các bạn
đọc quân ta diệt được mấy tên địch như SGK đâu).
- Đầu tiên là
lực lượng tình báo: Nguyễn Huệ có một lực lượng điệp báo cực hay. Các
ngả tiến quân của quân Xiêm qua đường sông (vào Gia Định) và đường bộ
(nhằm đánh thẳng vào An Khê thủ phủ Tây Sơn) đều bị Nguyễn Huệ nắm hết.
- Tiếp theo là địa thế - mưu lược: Sa Đéc là nơi không cần động tới.
Nguyễn Huệ dụ quân Xiêm tới một địa điểm có thể cho quân mai phục. Sau
khi thị sát, ngài chọn Rạch Gầm – Xoài Mút: một cửa sông đủ rộng và đủ
dài cho một hạm đội. Và đủ lau sậy để bố trí mai phục.
- Sau đó là
chiến tranh tâm lý: quân Xiêm ngoài miệng khoác lác, nổ vang trời.
Nguyễn Huệ càng tung hứng lên. Bằng cách cho một hạm đội ra hò hét khiêu
chiến, rồi giả thua bỏ chạy. Liên quân Xiêm – Nguyễn sướng quá, đuổi
theo, kéo cả lực lượng tới Rạch Gầm – Xoài Mút. Khi toàn bộ quân Xiêm
vào hẳn trong tầm đạn. Lúc ấy hàng trăm chiến thuyền được giấu kín từ
các hòn đảo nhỏ túa ra chém giết, đánh rốc vào giữa hai hàng, và hàng
trăm khẩu pháo binh từ hai bên bờ nã như chưa bao giờ được nã. (Nã mà
chỉ trúng quân địch, không trúng quân ta, đấy không đơn thuần vì Nguyễn
Huệ luyện quân ném hỏa hổ tinh thuần, mà còn vì Nguyễn Huệ luyện binh
bằng trống hiệu. Trống hiệu phân biệt trong đêm tối. Chú ý nhé: cả trận
Rạch Gầm – Xoài Mút lẫn trận Đống Đa đều đánh vào ban đêm. Khi ông mất,
thứ nghệ thuật này cũng bị tuyệt diệt. Đáng tiếc). 300 chiến thuyền bị
tiêu diệt, 20.000 quân chỉ có 2000 quân chạy thoát. Từ đó về sau quân
Xiêm sợ Huệ như sợ cọp.
Có một điều mà nhiều người ngưỡng mộ vua
Quang Trung hay nói: ông còn sống thì Pháp làm sao dễ dàng xâm lược nước
ta. Họ không phải là không có căn cứ. Năm 1782, Nguyễn Ánh nhờ mối quan
hệ với Bá Đa Lộc đã đưa được một lực lượng quân phương Tây do người
Pháp và người Bồ Đào Nha đưa thủy quân vào Gia Định. Nhưng vẫn không
chống nổi Nguyễn Huệ, sự quyết liệt của ngài, với quân lực súng trường
và hỏa hổ, lực lượng tinh nhuệ đã dễ dàng đánh bại liên quân phương Tây
ấy. Tôi nghĩ rằng, cả Châu Á thời điểm ấy, kể cả cái anh Trung Quốc luôn
rao giảng vĩ đại ấy. Cũng đừng hòng dùng súng trường phương Tây đánh
thắng quân phương Tây trên đường biển như Nguyễn Huệ làm vào năm 1782.
Lúc ấy ngài 29 tuổi. Như một Alexander Đại Đế của Hy Lạp cổ đại.
Cái đáng sợ của ngài còn ở cái cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa thủy quân
và bộ binh. Hai mặt trận này, ngài đánh đâu cũng giỏi. Đỉnh cao nhất có
lẽ là trận đánh Gia Định năm 1783, Nguyễn Huệ đưa voi vào trận chiến,
trên mặt sông và bùn lầy, voi được chở bằng đường biển, xông vào trận.
Từ cổ chí kim. Hiếm ai lì lợm như Nguyễn Huệ. Đặc biệt chiến dịch này
còn thể hiện tầm vóc thông thiên văn của Huệ, khi lợi dụng hướng gió để
tấn công quân đội Nguyễn Ánh. Hỏa công quân Nguyễn bắn ra, quay ngược ra
sau. Còn tên lửa Tây Sơn thì theo chiều gió sức mạnh tăng gấp bội.
Chúng ta sẽ đến với trận chiến cuối cùng: trận Ngoc Hồi – Đống Đa. Trận chiến vĩ đại nhất của Quang Trung.
Nhưng trước khi vào trận chiến này ta nói một vấn đề mà ai cũng nghĩ
rằng Huệ không giỏi: chính trị. Nhưng hay coi lại. Năm 1786 khi đưa quân
ra Bắc lần thứ nhất, ngài lấy danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh” vì ngài
biết rằng nhà Lê đã ăn sâu bén rễ trong lòng người dân đã lâu, và ngài
từ phương xa tới, chưa lấy được lòng dân. Nhưng năm 1789, khi đưa quân
ra Bắc lần thứ hai, thì ngài giương cao khẩu hiệu “Lê Chiếu Thống bán
nước, đánh đuổi quân xâm lược”. Người Việt Nam với tinh thần dân tộc rất
cao đã đi theo ngài, ủng hộ ngài. Và dù không như vậy, họ cũng dễ dàng
thấy chính nghĩa nằm ở đâu? Chắc chắn không phải là ở kẻ đưa 20 vạn quân
Thanh vào uống rượu ở Thăng Long. Vậy là lần này quân Tây Sơn đã có
lòng dân. Nguyễn Huệ cực kỳ linh mẫn với chính trị. Kể cả việc ngài nghĩ
tới chuyện hòa hiếu với Càn Long và sau đó đòi Lưỡng Quảng.
Trận
Ngọc Hồi – Đống Đa. Điều tiên quyết nhất cho chiến thắng là 2 điểm: thứ
nhất là cách dụng binh thần tốc. Thiên tài Nguyễn Huệ nằm ở chữ
“NHANH”. Ông là chuyên gia đánh đòn sấm sét, xuất quỷ nhập nhần. Như
tướng nhà trời rơi xuống. Và ưa dùng cách đánh bất ngờ. Bắt Vũ Văn Nhậm
khi Nhậm đang ngủ say, đánh Tôn Sĩ Nghị khi Nghị đang ăn bánh chưng, bỏ
Nguyễn Hữu Chỉnh đêm hôm sau dù đêm hôm trước còn hàn huyên với Chỉnh.
Đêm hôm ngủ say, bỗng đèn đuốc sáng trưng. Đấy là khi quân của Quang
Trung vào.
-Chuyện hành quân thần tốc: Đã có quá nhiều giả thiết
về vấn đề này. Rốt cuộc thì Nguyễn Huệ đã hành quân như thế nào mà chỉ
rời Huế ngày 22 tháng chạp, đã đến Thăng Long vào ngày mồng 5 Tết. Vấn
đề nằm ở nguyên tắc “tập thể di chuyển liên tục ngày đêm, cá nhân luân
phiên nghỉ dưỡng sức”. Có nghĩa rằng đạo quân khổng lồ đó luôn luôn phải
di chuyển 24/24, nhưng những người lính sẽ thay phiên nhau khiêng võng –
nghỉ, khiêng võng – nghỉ theo tốp 3 người. Sự gấp rút ấy đáng sợ đến
mức mà voi ngựa lẫn quân lính chết dọc đường rất nhiều. Và ông đi đến
đâu, lại mộ binh đến đấy để khỏa lấp số quân thiếu hụt. Mọi giả thiết
đều là bí ẩn. Đó cũng chỉ là 1 giả thiết mang tính chất tham khảo.
-Tâm lý: Vua Quang Trung đã hành quân nhanh không ngờ, lại còn chơi
chiêu. Ông gửi thư xin Tôn Sĩ Nghị rút quân, khiến Nghị càng đã tai. Lại
càng say sưa chè chén. Và đúng đêm mồng 5 Tết thì khói lửa rợp trời.
- Sĩ khí: Đầu tiên, vì là đoàn quân trên trời rơi xuống nên tất cả các
tiền đồn của Trung Quốc bị Quang Trung diệt sạch không còn một mống, và
kéo rốc tới Hạ Hồi ngày mồng 4 Tết. Khi Quân Thanh phản công, nhiều
người nao núng. Quang Trung nhảy xuống voi, thắt khăn vàng, cầm song
kiếm chém giết. Như chính bài hịch “Đánh cho để đen răng/Đánh cho để dài
tóc”.
Và ngài dừng ở đấy !
***
Như các bạn đã đọc và
hẳn đã thấy, Quang Trung là con người bách chiến bách thắng. Tất cả mọi
tinh hoa về quân sự từ cổ chí kim của dân tộc cùng cái tàn bạo của kẻ
cầm quân gói gọn ở trong tay ngài. Ngày ngài mất đi, nghệ thuật quân sự
đánh thần tốc, tiêu diệt chủ động cũng mất đi. Quân ta sau này đánh du
kích là chủ yếu.
Quang Trung xuất thân từ nông dân, đã đi lên từ
đói khổ với chiếc áo vải cờ đào, đã thống nhất được dân tộc sau 30 năm
nội chiến. Con người biểu trưng cho sức mạnh vĩ đại nhất của người nông
dân khởi nghĩa. Khi đối diện với hai ông hoàng thất thế. Kẻ ở trong Nam
viện trợ quân Xiêm, kẻ ở ngoài Bắc viện trợ quân Thanh. Một mình ngài
đánh tan ngoại bang không còn mảnh giáp. Quang Trung là vị anh hùng của
người dân kham khổ.
Lời đầu Hoa Bằng có đoạn:
“Ôi, là
người đồng thời và ngang hàng với Nã Phá Luân, Quang Trung cũng có thiên
tài về quân sự, cũng có thủ đoạn thần tốc trong việc hành binh, cũng có
chí hăng, hoài bão lớn…Vậy mà Nã được gửi nắm xương trong đền
Invalindes để cho người sau viếng thăm ca tụng! Còn Quang Trung? Sự
nghiệp oanh liệt phải vùi sâu trong vực thẳm thời gian!
Trèo lên
Đống Đa, trông ra bốn mặt “nào gái, nào trai, nào áo, nào mũ, nào ngựa
kéo xe, trâu cày ruộng, gió bụi lưng trời mờ mịt…Vua Quang Trung nào
đâu?”
HẾT
© Dũng Phan
ABOUT THE AUTHOR
Lịch sử quân sự, nghê thuật chiến tranh và những tướng lĩnh kiệt xuất
0 nhận xét:
Đăng nhận xét