TRIỆU ĐÀ & Tính chính thống của nhà nước Nam Việt?
Nhà Triệu là một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử gây nhiều tranh
cãi cho giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Nhưng tựu chung lại, vẫn chỉ có
2 luồng quan điểm:
1. Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp
nhập Âu Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ nước Việt, nhà Triệu là triều
đại chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc.
2. Triệu Đà là người phương Bắc, đến từ Trung Nguyên (nay là lưu vực
sông Hoàng Hà ở Trung Quốc) theo lệnh Tần Thuỷ Hoàng đem di dân người
Hoa Hạ xuống vùng Lĩnh Nam (là nơi cư trú của các bộ tộc Bách Việt) và
được làm Huyện lệnh Long Xuyên thuộc quận Nam Hải mới khai hoá, khi nhà
Tần mất thì mới tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm
lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Chi tiết hơn về 2 luồng quan điểm này, các bạn có thể xem thêm ở đây:
Ở phạm vi bài này, tôi chỉ xin trích lại bài viết của nhà nghiên cứu Hà
Văn Thùy đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An, với những quan điểm của
riêng ông, 1 góc nhìn thú vị:
//
Những ai quan tâm
tới lịch sử dân tộc Việt đều biết rằng, khi nhà Tần diệt nước Thục, giết
vua và thái tử Thục ở núi Bách Lộc năm 316 TCN, Thục Chế cùng di duệ
nhà Thục chạy xuống tá túc trên đất của vua Hùng. Nhiều lần Chế tấn công
Hùng Duệ Vương nhưng không thành, tới đời con ông là Thục Phán (An
Dương Vương) đã diệt vua Hùng, lập nước Âu Lạc.
Năm 257 TCN,
Triệu Đà vua nước Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam
Việt. Quốc sử của ta, từ đời Nguyễn về trước, đều ghi nhận Âu Lạc và Nam
Việt là nhà nước chính thống của người Việt. An Dương Vương và Triệu Vũ
Đế đều được ghi công lớn. Không những thế, Triệu Đà còn được suy tôn là
vị vua mở đầu của lịch sử đất nước. Tuy nhiên, giới sử gia miền Bắc vào
thập niên 1960 phán quyết rằng Triệu Đà là ngoại xâm nên bỏ Kỷ nhà
Triệu khỏi chính sử.
Từ đó tới nay, trong dư luận xã hội cũng
như học giới có nhiều ý kiến không đồng tình với việc làm trên, đưa ra
nhiều bằng chứng cùng luận cứ cho thấy nhà Triệu là nhà nước của người
Việt. Bản thân người viết cũng hơn một lần lên tiếng về việc này. Nay
xin trình bày những di hại của việc trục xuất nhà Triệu khỏi chính sử.
Truyền thuyết cũng như chính sử Việt Nam ghi rằng, Xích Quỷ là nhà nước
đầu tiên tiên của người Việt được thành lập năm 2879 TCN. Sau này, nhà
nước Văn Lang của các Vua Hùng hình thành trên cương vực của nước Xích
Quỷ. Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu
vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở… Tần Thủy
Hoàng diệt nước Sở, sáp nhập đất đai cùng dân cư nước Văn Lang cũ vào đế
chế Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà, một viên huyện lệnh người Việt
đã lãnh đạo dân Việt phía nam sông Dương Tử lập nước Nam Việt. Việc Nam
Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào mình, về bản chất lịch sử
không khác gì việc Quang Trung diệt nhà Lê Trịnh để lập Đại Việt thống
nhất bao gồm cả vùng đất phía Nam. Dù gì đi nữa, cũng không thể bác bỏ
sự thật là, trong một thế kỷ tồn tại, Nam Việt là cái cầu, là sợi dây
nhau cuối cùng kết nối Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt.
Vì vậy, việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt đưa tới những hệ lụy nghiêm trọng sau:
+ Tước bỏ tư cách thừa kế của người Việt Nam với quá khứ của đại tộc
Việt. Từ những phát hiện của di truyền học đầu thế kỷ XXI cho thấy,
người Việt không chỉ sinh sống lâu đời ở Nam Dương Tử mà hàng vạn năm
trước là chủ nhân của đất Trung Hoa. Trên đất này, đại tộc Việt đã làm
nên những nền văn hóa rực rỡ.
+ Tước bỏ vai trò chủ nhân Việt
đối với ngôn ngữ gốc mà người Trung Hoa đang sử dụng hiện nay. Trong tám
phương ngữ được xác định trên đất Trung Hoa thì tiếng Việt Quảng Đông
được coi là ngôn ngữ gốc. Trong khi đó, nguồn cội của ngôn ngữ Quảng
Đông chính là ngôn ngữ vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, trung tâm của người Việt
khoảng 15.000 năm trước.
+ Tước bỏ vai trò sáng tạo chữ Giáp
cốt của người Việt. Chữ Giáp cốt được phát hiện đầu tiên vào thời nhà Ân
ở Hà Nam. Nhưng khảo cổ học xác định rằng tại văn hóa Giả Hồ 9000 năm
trước đã có ký tự hình vẽ trên yếm rùa. Cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm
Tang tỉnh Quảng Tây phát hiện ký tự tượng hình khắc trên xẻng đá có tuổi
4000 tới 6000 năm trước. Những ký tự kiểu Giáp cốt này xuất hiện trước
khi người Hoa Hạ ra đời. Do vậy nó hoàn toàn là sản phẩm sáng tạo của
người Vịệt.
+ Tước bỏ mối liên hệ huyết thống và văn hóa với
những bộ tộc người Việt đang sống trên đất Trung Hoa. Những khám phá
lịch sử cho thấy, trước cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng thì phần lớn
đất Trung Hoa do người Việt làm chủ: Thục và Ba phía tây nam; Ngô, Sở,
Việt ở trung tâm và phía đông; Văn Lang phía nam. Do cuộc xâm lăng của
Tần Thủy Hoàng, phần lớn đất đai và dân cư Việt bị sáp nhập vào đế chế
Tần. Trong phần đất bị chiếm, đại bộ phận người Việt bị Hán hóa. Tuy
nhiên, có không ít nhóm Việt không chịu đồng hóa, đã lui sâu vào cư trú
trong vùng rừng núi. Lâu dần, từ người Lạc Việt – tộc đa số trong dân
cư- họ bị thiểu số hóa. Những nhóm người như tộc Thủy, Bố Y ở Quý Châu
vẫn giữ nhiều nét văn hóa Việt cổ, có thể nói đó là nền văn hóa Việt hóa
thạch. Nếu nghiên cứu văn hóa của những tộc người bà con này, chắc chắn
sẽ khám phá lại nhiều điều quý giá của văn hóa Việt cổ. Đặc biệt tộc
Thủy với 340.000 người vẫn giữ được sách Thủy (Thủy thư -水书) viết bằng
chữ Thủy (Thủy tự), loại chữ tượng hình gần gũi Giáp cốt văn nhưng hành
văn theo cách nói xuôi của người Việt, một loại văn tự hóa thạch sống,
được Trung Quốc coi là bảo vật.
+ Mất quyền thừa kế với truyền thống và văn hóa Nam Việt.
Sáp nhập đất đai và dân cư Âu Lạc, Nam Việt thành quốc gia lớn trong
khu vực. Trái với quan niệm phổ biến cho đến nay là Triệu Đà dùng kế
sách “nội đế ngoại vương” (bên trong xưng đế nhưng đối với nhà Hán thì
xưng vương), suốt đời mình, Triệu Đà xưng danh hiệu Triệu Vũ Đế và cháu
ông cũng xưng đế mà bằng chứng là chiếc ấn bằng vàng, kich thước 310 x
310 mm (lớn hơn mọi con ấn của vua Hán) khắc bốn chữ Văn Đế hành tỷ
(文帝行璽) tìm thấy trong lăng mộ. Sau khi phát hiện lăng mộ Triệu Văn Đế,
người Trung Hoa đã lập khu trưng bày di tích này với khoảng 2500 hiện
vật đặc sắc, trong đó đại đa số là thuộc văn hóa Việt. Do coi đây là của
người Trung Hoa nên giới sử học Việt chưa hề có nghiên cứu nào về di
chỉ quan trọng này.
Để mất những mối liên hệ trên, không chỉ là
nỗi đau của người Việt Nam, dòng cuối cùng của Bách Việt còn độc lập và
giữ được cương thổ. Nguy hại hơn, nó cắt đứt mối liên hệ với quá khứ,
khiến cội nguồn, lịch sử và văn hóa Việt trở nên chông chênh trên không
chằng, dưới không rễ!
Từng có cuộc tranh biện giữa học giả hai
nước Trung Việt về trống đồng Vạn Gia Bá và Đông Sơn, cái nào có trước?
Do từ chối Nam Việt nên học giả Việt Nam bỏ mặt trận, thúc thủ lui về
biên giới Việt Nam hiện tại, để rồi cố sức một cách vô vọng cho rằng
trống Đông Sơn có trước! Nếu không tự từ bỏ Nam Việt, học giả Việt Nam
có thể dõng dạc tuyên bố: “Với công nghệ định tuổi đồ đồng hiện nay cùng
tình trạng cổ vật khi thu hồi, không thể định tuổi chính xác hai loại
trống đồng trên. Tuy nhiên điều này không thật có ý nghĩa vì trống Đông
Sơn cũng như Vạn Gia Bá đều là sản phẩm sáng tạo của người Lạc Việt, tổ
tiên chúng tôi trên đất đai mênh mông của người Lạc Việt từ nam Dương Tử
tới miền Trung Việt Nam, ở thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên!”
Tuy là chuyện của quá khứ nhưng lịch sử luôn gắn bó mật thiết với cuộc
sống hiện tại. Những nhận thức và quyết định không thỏa đáng về lịch sử
đưa tới những di họa khó lường. Bởi vậy, thiết nghĩ, chúng ta cần có
những nghiên cứu nghiêm túc và kĩ càng về vấn đề này và các vấn đề khác
của lịch sử dân tộc.
© Hà Văn Thuỳ
ABOUT THE AUTHOR
Lịch sử quân sự, nghê thuật chiến tranh và những tướng lĩnh kiệt xuất
0 nhận xét:
Đăng nhận xét